Ngôi sao của Top 50
CNG Việt Nam: Quán quân 2013
Chúng tôi dùng bộ tiêu chí này để xếp hạng các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán 3 nước Malaysia, Indonesia, Thái Lan và kết quả thật bất ngờ. Malaysia, đất nước sản xuất dầu cọ lớn nhất thế giới, có quán quân là công ty sản xuất dầu cọ và cao su thiên nhiên. Thái Lan nổi tiếng về công nghiệp du lịch thì công ty xếp hạng 1 thuộc ngành này. Quán quân ở Indonesia là Công ty Viễn thông Inti Bangun Sejahtera, tuy có quy mô nhỏ hơn các công ty cùng ngành nhưng doanh thu và lợi nhuận năm 2012 tăng trưởng đến 300%, vượt qua Unilever Indonesia và xếp vị trí số 1.
Trong khi đó, ở Việt Nam quán quân là Công ty Cổ phần CNG Việt Nam, một công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, vận chuyển, phân phối khí nén thiên nhiên CNG. Với 3 chỉ số tài chính bình quân 3 năm 2010-2012 khá ấn tượng: tăng trưởng doanh thu là 120%, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) và vốn đầu tư (ROC) là 55% và 43%, CNG đã giành vị trí đầu tiên trong Top 50. Giống trường hợp Tập đoàn Hà Đô (HDG) năm ngoái, CNG đứng đầu nhờ tiêu chí tăng trưởng doanh thu bình quân 3 năm vượt trội ở mức 120%/năm. Tuy nhiên, sự vượt trội này chủ yếu do quy mô doanh thu năm gốc tính toán nhỏ và tăng trưởng doanh thu không đồng đều qua các năm (năm 2012 tăng 9%, năm 2011 tăng 156%, năm 2010 tăng 278%).
Vinamilk Voi vẫn phi nước đại
Trải qua 10 năm cổ phần hóa, Vinamilk đã có bước tăng trưởng vượt bậc với doanh thu tăng gấp 6,3 lần, lợi nhuận tăng gấp 11 lần, quy mô vốn chủ sở hữu gấp 8,3 lần so với năm 2004 (năm tài chính đầu tiên sau cổ phần hóa) và cũng là 1 trong 4 công ty (GAS, FPT, VNM, PVS) đạt doanh thu tỉ USD trên sàn chứng khoán.
Nếu được phép bình chọn công ty đứng đầu bảng tổng sắp, chúng tôi có lẽ sẽ “bỏ phiếu” cho Vinamilk, bởi một con voi khổng lồ mà biết chạy nhanh như công ty này quả thật không dễ tìm tại Việt Nam.
Điều đặc biệt nhất là toàn bộ hoạt động đầu tư của Vinamilk được tích lũy từ chính nguồn lợi nhuận mà công ty này tạo ra. Trong quá trình hoạt động, Vinamilk cũng có lúc lấn sang mảng cà phê, bia nhưng cuối cùng đã kịp quay về ngành kinh doanh cốt lõi và phát triển khá tốt. Những kết quả ấn tượng trên đã thể hiện sự năng lực quản trị đẳng cấp của đội ngũ lãnh đạo công ty này, đặc biệt là dấu ấn của “thuyền trưởng” Mai Kiều Liên, Tổng Giám đốc Công ty.
Bà Liên chia sẻ với chúng tôi quan điểm kinh doanh khá quyết liệt: “Tôi nói với nhân viên của mình rằng Vinamilk không những phải trụ được trong ngành mà còn phải giành lấy thị phần, công ty có lớn đến đâu nhưng mỗi năm vẫn phải lấy thêm được một ít thị phần, 1-2% cũng được. Vì đứng yên thì coi như mình đang đánh mất”.
Trong bảng tổng sắp Top 50 của chúng tôi, Vinamilk đã vươn lên vị trí số 2 so với thứ 4 của năm ngoái. Nhìn trong tương quan các doanh nghiệp khác trong bảng xếp hạng, nếu sự tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp cao su và dầu khí phụ thuộc khá nhiều vào giá bán thì Vinamilk lại tăng trưởng bằng công suất nhà máy liên tục mở rộng và sản lượng tiêu thụ tăng nhanh. Năm 2012 cũng đánh dấu những thành công nhất định của VNM trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triền sản phẩm mới, khi Vinamilk đã tung ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, trong đó có 3 dòng sản phẩm nổi bật là Goldsoy chế biến từ 100% đậu nành không biến đổi gen, sữa chua Probeauty bổ sung Collagen và sữa bột Dielac Optimum hỗ trợ tiêu hóa cho trẻ từ 0-3 tuổi.
Tổng giám đốc vinamilk là một trong những doanh nhân tiếp nhận tư duy cổ phần hóa và thị trường từ khá sớm. Từ thời kỳ hàng loạt nhà máy sữa thuộc Vinamilk được dựng lên với quy mô nhỏ, đến nay, việc các siêu nhà máy mới sẽ được vận hành đang thể hiện rõ nét quan điểm cạnh tranh quyết liệt của bà trên thương trường. Bà chia sẻ quan điểm kinh doanh “thắng bằng sản lượng” và “lúc này, thay vì xây dựng các nhà máy nhỏ thì đầu tư các nhà máy rất lớn và hiện đại nhất”. Tham vọng của các nhà quản trị Vinamilk là đạt đến doanh số 3 tỉ USD vào năm 2017.
Trong buổi trò chuyện thân mật cùng bà Liên tại siêu nhà máy sữa bột trẻ em, bà chia sẻ: “Sữa và cà phê là hai thứ Việt Nam có thể xuất khẩu tốt. Hiện nay, Vinamilk đang thu mua của nông dân 500 tấn sữa/ngày và sắp tới, chúng tôi sẽ phát triển thêm trang trại bên cạnh 5 trang trại hiện thời và tiếp tục sát cánh cùng nông dân”.
Vinamilk đã hoạt động theo mô hình kỹ trị nâng cao từ khoảng 4 năm nay. Điều đó có nghĩa, nhân lực biến động cũng không tác động nhiều đến Công ty. Mỗi người có bản mô tả công việc rõ ràng, người sau thay người trước thì cứ thế mà làm. “Văn hóa mà Vinamilk xây dựng từ lâu nay là minh bạch và công bằng. Tôi quan niệm, đã là công ty niêm yết lớn thì không nên giấu giếm điều gì”, bà nói.
Vinacafe Biên Hòa Thay da đổi thịt khi về với Masan
Bên cạnh sự thăng hạng của VNM trong “top 10” (chúng tôi dành một bài viết riêng về VNM), Vinacafe cũng là một đại diện tiêu biểu, minh chứng cho sự tăng trưởng của lĩnh vực hàng tiêu dùng bất chấp khó khăn của chu kỳ kinh tế. Doanh thu và lợi nhuận 2012 tăng 41% và 33%, mức tốt nhất trong vòng 5 năm qua, đã đưa VCF lên vị trí thứ 9 so với 26 năm ngoái. Về với Masan Consumer hơn 1 năm (từ quý III/2011), VCF đã thay đổi từ diện mạo bên ngoài đến kết quả hoạt động kinh doanh. Thị trường dường như đón nhận ngay những chiến dịch quảng cáo mạnh tay mà VCF giới thiệu cho các sản phẩm mới như “Wake up Sài Gòn”, “Wake up Café”,“ New Vina Café”, ngũ cốc dinh dưỡng “Kachi”. Điều đáng nói nhất về sức mạnh tăng trưởng của VCF chính là việc sản phẩm của họ được đưa vào kênh tiêu thụ rộng khắp của Masan, một doanh nghiệp sản xuất mì gói, nước chấm với hệ thống lớn nhất nhì Việt Nam. Nhờ đó sản lượng tiêu thụ cà phê năm 2012 của VCF đã tăng trưởng hơn 30%, ngũ cốc dinh dưỡng tăng khoảng 40% (chiếm 22% doanh thu và dẫn đầu thị phần). VCF đã đặt kế họach doanh thu và lợi nhuận sau thế 2013 tăng 46% và 60% khi nhà máy cà phê hòa tan Long Thành (công suất 3.200 tấn/năm, gần gấp 3 lần tổng công suất 2 nhà máy đang hoạt động) dự kiến đi vào hoạt động năm 2013.
Traphaco & Dược Hậu Giang: Cùng nhau thăng hạng
Nhìn ra ngoài “Top 10”, 40 công ty còn lại trong danh sách “Top 50” không có biến động lớn về thứ hạng so với danh sách của năm 2012. Tuy nhiên, đáng lưu ý nhất là mức tăng hạng của các công ty trong ngành dược phẩm, đặc biệt là Traphaco (TRA) và Dược Hậu Giang (DHG).
Traphaco là công ty dẫn đầu thị phần đông dược nên vẫn duy trì doanh thu và lợi nhuận sau thuế tăng trưởng ở mức 30% trong năm 2012. Sự tăng trưởng này đã giúp TRA nâng hạng lên vị trí 29 so với vị trí 47 của năm 2012. Tiềm năng tăng trưởng dài hạn của TRA được hỗ trợ bởi các yếu tố (1) là công ty đầu tiên phát triển vùng trồng dược liệu khép kín bằng công nghệ Greenplan, (2) là công ty biết chủ động về nguồn nguyên liệu với 70% tự sản xuất khép kín, kết hợp thu mua từ nông dân, (3) nhu cầu sử dụng đông dược hiện tại ở Việt Nam đạt mức 80.000 tấn/năm, trong khi công suất của công ty chỉ mới 30.000 tấn/năm.
Trong khi đó, Dược Hậu Giang, công ty có thị phần lớn nhất trong các công ty dược nội địa và có hiệu quả sử dụng vốn tốt nhất (trên 30%) cũng nâng hạng từ 18 (năm 2012) lên 16 (năm 2013).
Thiết bị y tế Việt Nhật: Doanh nghiệp tư nhân duy nhất trong Top 10
Lần đầu tiên vào “Top 50” JVC đã xếp ngay vị trí thứ 3 và là công ty cổ phần tư nhân duy nhất trong Top 10. Vậy JVC là ai? Là công ty chuyên kinh doanh thiết bị y tế hoạt động trong bối cảnh ngành y tế Việt Nam còn yếu, chưa đồng bộ và lạc hậu, JVC có được lợi thế cạnh tranh lớn vì là nhà phân phối độc quyền của rất nhiều hãng cung cấp thiết bị y tế lớn như Hitachi, Carestream Health, Kodak cho hơn 100 bệnh biện lớn trên cả nước. Lợi thế của JVC là nguồn hàng ổn định, giá cạnh tranh và nhiều hỗ trợ ưu đãi từ các nhà sản xuất, trong khi đối thủ của họ chỉ cung cấp hệ thống đơn lẻ, khó vận hành và thiếu tính tương thích. Theo Tổ chức Nghiên cứu Thị trường Business Monitor, thị trường trang thiết bị y tế năm 2011 ở Việt Nam có giá trị 600 triệu USD và được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng từ 15,2%/năm để hướng tới quy mô trên 1,2 tỉ USD vào năm 2015. Điều này cho thấy, JVC còn rất nhiều tiềm năng tăng trưởng trong tương lai.
Lời kết
Sau 2 năm thực hiện, một số điểm hạn chế của phương pháp nghiên cứu xếp hạng cũng được chúng tôi ghi nhận. Đầu tiên là sự chênh lệch về quy mô giữa các công ty trong Top 50. Chúng tôi luôn mong muốn có thể xếp hạng các công ty quy mô lớn và quy mô nhỏ thành 2 nhóm riêng nhằm phản ánh chính xác hiệu quả quản trị doanh nghiệp ở từng công ty. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hơn thường có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn và đòi hỏi năng lực quản lý không phức tạp như các doanh nghiệp có quy mô lớn. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp niêm yết còn ít và thiếu công ty lớn đã không cho phép chúng tôi thực hiện điều này. Số lượng doanh nghiệp mới lên sàn HOSE thậm chí còn có xu hướng giảm: năm 2011 có 26 công ty mới niêm yết trên sàn, nhưng sang năm 2012 chỉ có 12 công ty.
Một điểm hạn chế khác là chỉ tiêu ROE, ROC mới chỉ phản ánh kết quả quá khứ và thực tại của doanh nghiệp, chưa phản ánh hết tiềm năng dài hạn của công ty. Các công ty trong giai đoạn tăng vốn và mở rộng đầu tư sẽ tạm thời chịu mức ROE thấp hơn và có thể bị xếp hạng thấp hơn. Tuy nhiên, rất có thể 3 đến 5 năm sau, khi các khoản đầu tư này bắt đầu thu lợi nhuận, các công ty này sẽ vào Top 50 và xếp hạng cao. Masan là một công ty đại diện cho trường hợp này. Trong 2 năm vừa qua Masan liên tục mở rộng quy mô bằng cách M&A và Masan cần thêm thời gian để các tài sản mới này đóng góp lợi nhuận. Quy mô vốn tăng nhanh khiến ROE năm 2011 và 2012 ở mức 8,55% và 15%, MSN giữ vị trí 36 trong bảng xếp hạng Top 50.
Cuối cùng, chúng tôi luôn hướng đến sự khoa học, chính xác và công bằng nhất khi thực hiện xếp hạng nhưng chắc chắn mọi sự so sánh đều chỉ mang tính tương đối. Vì vậy, mục tiêu tối thượng của Hội đồng Khảo sát 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam là luôn tìm cách hoàn thiện các tiêu chí xếp hạng để phản ánh xác thực nhất hiệu quả tăng trưởng của doanh nghiệp Việt Nam, tôn vinh các doanh nghiệp có chiến lược tăng trưởng đúng đắn và bền vững.
Danh sách 50 công ty kinh doanh hiệu quả nhất Việt Nam 2013, xem tại đây
Nguồn: NCĐT
|